Truyện Tử Vi của Bửu Đình.
Hồi thứ 12.
Những Bản Mật Tấu Lạ Lùng.
Bên trái phía trên viết.
Viện Cơ Mật, xuống dòng viết Văn Phòng Tử Vi.
Bên phải phía trên viết Đại Vương Quốc Tử Vi. Phía dưới canh đều hai
bên, viết tiêu đề: Lắm chuyện - Nhiều Trò. Xuống dưới vài phân viết lớn: Bản
Mật Tấu ( tức Tử Vi Tấu Thư) số 1, xuống hàng viết: Đặc vụ (tức Tử Cô) KS 20.
Lại xuống hàng. Ngày..tháng...năm.
Bản Mật Tấu
số 1.
Xứ Ngọ. ngày tháng năm.
Buổi sáng.
Phải đi đến xứ Thân điều
tra vụ Lãnh binh PHÁ QUÂN Triệt trước. Những động thái của y khiến cả Cơ Mật
viện ngẩn ngơ. Điều tra xong sẽ báo hoàng thượng để ngài khỏi băn khoăn lo
lắng. Đó là tâm niệm của thần.
Mô tả tình cảm: Đường cái
quan đã năm năm rồi không đi, nay thấy nhiều thay đổi. Liệu lòng người có thay
đổi theo năm tháng hay không.
Buổi trưa. Địa giới 2 xứ
Ngọ, Mùi.
Dừng ngựa ăn trưa, tại một
quán cơm có bảng đề “Rẻ Như Bèo” gắn bên vệ đường. Tại địa giới 2 xứ Ngọ Mùi.
Nhớ lại lời Hoàng Thượng dặn ta. Đi đâu cũng ghi nhớ, tìm hiểu (Tham Lang) đời
sống của mọi tầng lớp nhân dân và sinh hoạt (Tử Vi) của họ. Cô chủ quán mặt mũi
cười tươi, áo mặc vội vàng hở cả ngực, đon đả chào mời. Quý khách ăn cơm dĩa
hay cơm phần. Hạ thần bảo ăn gì cũng được. Thế là thức ăn dọn ra ê hề đầy cả
bàn. Chồng chồng, lớp lớp. Tính ra mất toi một triệu. Nhìn ra, tấm bảng hiệu từ
phía bên trong, hóa ra “Đâu Phải, Rẻ Như Bèo”. Nếu Hoàng Thượng lâm cảnh này
ngài nghĩ sao.
Lại lên đường, vó câu khập
khiễng, do ăn quá no, tối nay nhịn cũng còn no. Kia rồi, Biển Kình Dương nỗi
tiếng xứ Mùi. Qua câu:
Đường vô xứ Ngọ quanh co.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Yêu em, anh chẳng dám vô.
Sợ Kình dậy sóng. Sợ ngài Hổ Quan. (nhái lại câu ca dao xứ
Huế)
Đánh giá về quân sự: Lợi
cho phòng thủ. Đường vô xứ Ngọ bị khóa chặt, do địa hình tại đây rất hẹp.
Vượt qua huyện lỵ HOA CÁI, tranh thủ đến huyên BẠCH HỔ
trước trời tối. Lòng toan tính Tuần Triệt cộng trừ. Nếu ngủ nhà khách thâm vốn,
ngủ nhà khâm sai địa phương sợ lộ bí mật công tác. Ngủ chùa, ngủ đình, ngủ nhờ
nhà dân là chắc ăn lại dư ra một ít tiền.
Buổi tối. Xứ Mùi. Huyện
Bach Hổ.
Đầu giờ tuất. Chùa đây
rồi, trong bóng đêm ngôi chùa hiện rõ không thể lầm.
- Mô Phật. Thí chủ cần gì?
- Vãn sinh cần chỗ trọ đêm nay.
- Ồ, không được rồi. Đây
là chùa sư nữ THÁI ÂM tự. Thí chủ là nam nhân nên đến huyện lỵ BẠCH HỔ tìm chỗ
trọ. Còn đi về lối xứ Thân toàn cọp beo mà thôi. Thí chủ ngủ nhờ nhà chùa dễ bị
tai tiếng.
- Nhà chùa bị tai tiếng, các ni sư có bị tai tiếng đâu.
- Thí chủ chịu phiền, đứng
nói chuyện như thế này bất lợi.
Nửa canh giờ sau. Hạ thần
quay trở lại. Tất nhiên đã hóa trang xong.
- Ni trưởng cần gì ạ?
- Bần ni từ xứ Ngọ qua đây lỡ... làng, à quên lỡ đường, xin ngủ nhờ quý
tự.
- Ni trưởng hạnh tu chùa
nào ở Kinh đô?
- Cơ Mật tự.
- Chùa chiền gì nghe tên
ghê thế.
- Cơ là đói. Mật là kín đáo, là âm thầm kín đáo chịu đói.
- Nghe thương chưa! Nghiệp
chướng chưa! Ni sư thì râu ria nên cạo nhẵn đi.
- Chị em phụ nữ chúng ta, có những người khổ tâm không thể nói ra. Bần
ni vì cái tướng “mao sanh tu” nên lỡ làng duyên số, bẽ bàng tình duyên, phũ
phàng chuyện yêu thương, nên nương nhờ cửa Phât.
- Bản tự cũng có ni cô bị
tướng xấu ấy. Nên uống hóc môn nữ vào, giảm bớt nhiều đấy. Có ni bị “âm xú” tủi
phận phải đi tu...
- Thôi, thôi đừng nói chuyện ấy. Trời hành chúng ta, kiếp này bần ni đi
tu để hóa giải cho kiếp sau.
- Mô Phật. Thật là nghiệp
chướng.
Sáng hôm sau vào thời kinh
sáng. Hạ thần lo biến gấp.
Bản Mật Tấu thứ 2.
Ngày... tháng... năm...
Buổi sáng. Huyện Phục
Binh. Xứ Thân.
Rời chùa THÁI ÂM tự khi
vừa canh năm nhưng đi mãi vẫn chưa thấy huyện lỵ PHỤC BINH. Đường núi gập gềnh
đèo thác, mãi đến gần đầu giờ mão chỉ thấy vài bóng người thấp thoáng trên
đường. Cả chục dặm đường chỉ thấy vài ngôi nhà ngói, đa phần là mái tranh.
Chẳng hề thấy hàng quán, một chợ quê nghèo hiện ra nhưng còn quá sớm, chả có
cái gì ăn được. Gần cuối giờ thìn mới thấy huyện lỵ, chợ búa đông người, vài
quán bên đường bán buôn lặt vặt. Quán ăn đây rồi. Quán mang tên “Mai ăn khỏi trả
tiền”. Hạ thần nghĩ thầm, có lẽ là “mai sau” có đâu mà sướng thế. Thôi thì vào
đây ăn sáng, ăn trưa hai cái cộng lại. Kinh nghiệm đầy mình không cho phép hạ
thần bất cẩn như ngày hôm qua.
- Một dĩa cơm với một con gà. Bao nhiêu?
- Hai trăm mười ngàn
chẵn..
Nhưng con gà chỉ thấy đầu
gà, móc câu, 2 chân, 2 cánh. Thân bay đâu mất. Quá đắt đấy nhé.
- Tiền nè.
- Quý khách cho đủ 300.
- Ủa! Nghe rõ là 210 ngàn chẵn.
- Đó là chưa tính trị giá
gia tăng, các em phục vụ đi qua đi lại.
- Có thấy ai qua lại đâu?
- Đó kìa.
Tất nhiên thần phải nhìn
theo, quả thấy, một con gà móng đỏ, ẻo ẻo...
- Người ta cứ trình diễn
miết mà quý khách thì cứ ham ăn. Bây giờ thấy cũng không muộn.
- Thôi, thôi tiền đây.
- Nếu quý khách thấy đắt
một tí, mai quay lại ăn khỏi trả tiền mà.
Tả tình:
Lòng người bây giờ chỉ
biết chém nhau bằng mọi cách. Kẻ thì chém bằng dao, kẻ thì chém bằng tiền. Kẻ
chém người bằng lời nói ác... Đạo đức có
phần sa sút. Chỉ năm năm không đi lại, bên ngoài có nhiều thay đổi.
Buổi trưa. Huyện Thiên
Khôi. Xứ Thân.
Cứu người, ai
ngờ người lại cứu mình.
Vượt qua con sông Thương
(Thiên Tướng) bằng chuyến đò ngang. Đến gần huyện lỵ THIÊN KHÔI, lúc đó đã qua
giờ ngọ, sông Nhớ (Lộc Tồn) cũng gần đây thôi, 2 sông tuy ở gần nhau nhưng sông
Thương xuất phát ở mãi xứ Mùi, sông Nhớ ở xứ Thân, thấy đôi Âm Dương đứng trên
cầu sông Nhớ. Cãi nhau sôi nổi, buồn tình con nhỏ Tiểu Âm Đồng lao đầu xuống
sông tự sát. Còn thằng Tiểu Dương Đồng vẫn trơ mắt ngó. Việc cứu người là khẩn
cấp. Thấy người gặp nguy hiểm mà không cứu cũng là có tội. Nhất là có câu:
“Dù xây chín bậc phù đồ. Không bằng làm phúc cứu
cho một người”.
Lúc đó thần đã ở ngay trên
cầu, chỉ cách con nhỏ đứng chưa tới 2 trượng. Thế là từ trên mình ngựa, búng
người lên không trung, rơi tỏm xuống dòng nước lạnh, tỉnh ngộ (tức Triệt) thì
đã muộn rồi. Vốn là người bơi lội rất kém, mình lại mang áo giáp mà trong ấy
mang theo nhiều kim ngân, cái roi ngựa một đầu bằng sắt, một đầu bằng nam châm,
chân lại mang ủng, trong người lại có cả cao đơn hoàn tán phòng khi trái gió
trở trời, chìm lỉm trong dòng nước lạnh mùa đông. Một thoáng ý nghĩ trong đầu,
phen này không còn gặp lại hoàng thượng, lòng sông khá sâu chẳng biết là bao
nhiêu trượng, thần nghĩ khi chạm đáy vận sức tung người lên, thật là tồi tệ,
bùn dày đến ngang bụng, vùng vẫy một hồi sau khi no một bụng bùn. Vận trung
bình tấn hết 12 thành công lực. Búng người lên mặt nước, hớp được tí không khí,
lúc đó mới hiểu câu: “THIÊN KHÔNG tối vi khẩn yếu” là quan trọng như thế nào.
Lại theo Đà La chìm xuống, thần nghĩ nhả không khí ra bất lợi, nó giúp cho mình
nhẹ người hơn. Khi cái chết gần kề sức mạnh trong người lại nhân lên gấp bội.
Lại búng người lên cao lần nữa (tức Kình Dương Mã), có xuống phải có lên, ở
dưới hoài coi cũng kỳ, lần này được một cánh tay thiên thần ai đó cứu giúp. Kẹp
cổ dìu thần bơi vào bờ. Nhưng cánh tay thiên thần dễ trở thành ác thần, vì nó
kẹp cứng ngắc, thở ra không được, hít vô cũng không xong, thế là TUẦN TRIỆT gia
thêm THIÊN KHÔNG, tam Không cách. Lại thêm một cái chết ngạt thở theo kiểu
khác, đã cố vận công vào cần cổ để xì ra làn không khí độc. Kẻ cứu người (Hà
Tướng Quân) thành kẻ hại người ( Hà Bệnh Phù), thấm thía bộ Tồn Tướng Phù, phen
này có lẽ Tồn dưới Âm phủ sau khi qua được nạn Hà Bá Lưu Hà. Trong lúc thần mông
lung trong đầu hình ảnh của hoàng thượng, thần nghĩ chỉ có hồng ân, phúc ấm của
bệ hạ mới cứu được thần thôi. Phép lạ xảy ra ngay, cái tay ấy nới ra một tí,
trao đổi được một ít không khí, phép lạ lại khép lại, còn cứng ngắc hơn nữa. Hạ
thần hoàn toàn bất tỉnh. Trong lúc mơ màn trong vũng tối khi hồn về bên kia thế
giới. Có những bóng người xuất hiện chưa hiểu rõ là ai, đưa những bàn tay ra
như đón, như đẩy, như xô... chợt nghe một lực ép mạnh như THẤT SÁT tại ngực. Hạ
thần nôn ra một đống bùn thế là tỉnh dậy trong... ngơ ngác. Con nhỏ Tiểu Âm
Đồng đang làm hô hấp nhân tạo dừng tay. Cũng là lúc rùng mình vì cơn lạnh mùa
đông. Con bé Tiểu Âm Đồng bảo:
- Thúc, thúc (tức chú,
chú) nên móc họng nôn ọe cho bằng hết bùn.
Không cần phải móc họng,
một cái gì đó khó chịu trong cổ họng, khiến hạ thần không còn tự chủ được, phải
nôn ra lập tức, một đống bùn và con cá rô to tổ bố và cả bửa cơm trị giá 300
ngàn đồng đi mất. Con Tiểu Âm Đồng mặc cái yếm thắm buộc miệng hỏi một câu lãng
nhách:
- Chú thất tình hay sao mà
tự tử?
- Ai nói ta tự tử. Mi thất tình như THẤT SÁT ngộ TƯỚNG QUÂN thì có. Ta
nhảy xuống cứu mi. Không ngờ cớ sự lại xảy ra như thế này.
- Cháu là vận động viên
nhảy cầu, đang tập luyện cho ngày thi đấu Hội Khỏe Mùa Xuân sắp tới vào dịp tết
Nguyên Đán tại tỉnh Thân.
- Mẹ cha mày. Lần sau tập luyện thì báo cho ông biết -tức không chịu
được- Hết chỗ tập luyện sao?
- Huyện nghèo làm gì có bể
bơi nhảy cầu để tập luyện. Thôi về nhà cháu gần đây, sưởi ấm kẻo cảm lạnh.
Thế là buổi chiều, buổi
tối đành phải ở lại tại đây. Mua thuốc dưỡng bệnh. Lòng lo nghĩ không hiểu
Hoàng Thượng có thấu hiểu cho chăng.
Sáng hôm sau ra đi. Sau
khi ăn tô cháo nóng bỏ nhiều tiêu hành để giải cảm do cô bé Tiểu Âm Đồng nấu.
Chia tay cám ơn cô bé lên đường, cô bé (tức là tiểu thư) dặn vói theo:
- Lần sau thúc thúc có
việc gì buồn, đến đây giải sầu chứ đừng tự tử nữa.
Nghĩ mà bực mình, thế mà
đến hôm nay nó còn tưởng mình tự sát. Thôi không tranh luận gì chuyện ấy.
Những bản mật tấu lạ kỳ.
Dưới con mắt của những người ưa tìm kiếm bí mật (như Sát Phá Tham ngộ Tử Vi) dễ
bị thất vọng (do Thất Sát khống đắc lực). Nhưng với nhà vua lại khác, ngài xem
nó rất cẩn thận và ưu tiên hơn cả các văn thư của ngài Thượng thư bộ Binh gởi
về, với các con dấu khẩn, mật, tối khẩn, tối mật vì đang có cuộc chiến dịch An
Dân mở ra tại vùng đất Hoang Đường. Với cuộc hành quân Vì Dân, mật danh (Tử Thanh) HQ1. Nhà vua chăm
chú đọc và dùng bút son phê vào, gọi là “phụng châu phê” nhưng ở đây không thấy
phê chữ nào, chỉ thấy ngài gạch dưới một số từ. Đoạn ngài đưa bàn tay trái xòe
ra, dùng ngón cái bấm bấm, cứ y như thầy bói mù.
Thôi thì ngài gạch dưới
những từ gì, hồi sau sẽ rõ. Ngài gõ nhẹ vào chiếc khánh đồng gọi quân thị vệ.
Lại nghe ngài dặn dò:.. đến sông Nhớ... điều tra... trở về cho lẹ. Thế đấy, nhà
vua điều tra những bí mật trên bản mật tấu, đối với ngài quan trọng hơn chiến
dịch An Dân do ngài vạch ra. Mà chiến dịch An Dân là mục đích gì, chỉ có ngài
hiểu rất rõ mà thôi.
(Lời bàn: Khi bạn nhắn tin
ẩn nick hoặc hide lời bình là bạn đang mật tấu đấy.)
Cả 2 lần đưa bản Tấu Thư.
Nhà vua đưa bàn tay trái chém vào không trung rồi hất ra ngoài, cử chỉ đuổi
quan Khâm sai về, khiến Lữ Khách buồn lòng không ít. Như Cơ và Mật bị ngộ Triệt
chăng. Nhà vua lòng còn giận hờn Linh
Hỏa, mà chàng ta lại có chuyện cơ mật muốn bàn với nhà vua. Nhà vua đã không
chia sẻ chuyện hành quân đã đành còn xua đuổi, mặc dù bản mật tấu có nhiều cái
bẫy chàng tin là nhà vua sẽ mắc phải. Nhưng xem ra nhà vua không dính bẫy. Mục
đích, phương hướng, mục tiêu của cuộc hành quân đó là gì, đối với chàng ta tìm
hiểu không khó. Vì bộ Binh và Cơ Mật viện như hình với bóng. Cuộc hành quân đi
lòng vòng đúng với lộ trình chàng đã đi qua. Đến hôm nay đã chiếm trọn vẹn vùng
đất Hoang Đường, chỉ chờ lịnh vua là tấn công vùng Sơn Đường, được gọi mật danh
HQ 2. Nhưng kế hoạch (tức là Cơ) của Khâm sai đệ nhất là muốn tạm hoãn (Tử Vi
ngộ Triệt Đà) cuộc tấn công ấy, để chàng ta thử một bài toán, tìm ra một đáp số
quan trọng hơn, muốn vậy phải trình tấu với nhà vua rõ ràng. Ở đây lại bắt gặp
sự bất hợp tác.
Tất nhiên là viên khâm sai
cận thần của nhà vua rất là buồn, ngài không quan tâm những tin tức mới nhất mà
y đem về, có thể là ngài được viên quan cấm y thị vệ báo cáo. Thôi thì đành
phải viết mật tấu thứ ba. Phải tạo một cái bẫy (Đào Đà) nào đó, để ngài bực
mình gọi y lên nói chuyện.
Nhưng thực ra thì bác cũng đã tả tình: " Lòng người bây giờ chỉ biết chém nhau bằng mọi cách. Kẻ thì chém bằng dao, kẻ thì chém bằng tiền. Kẻ chém người bằng lời nói ác... Đạo đức có phần sa sút ."
Rồi thì: vận động viên tập nhảy cầu ở sông thì thật đúng là ...
Cháu đang chờ xem nhà vua gạch chân gì ở 2 bản tấu đầu và bản tấu thứ 3 "cài bẫy" nhà vua như thế nào! hì hì