Đây là bài Tuần Triệt đã viết trước đây mà chưa có cơ hội để hoàn chỉnh. Các ý đã viết và link của bài
http://vn.myblog.yahoo.com/buudinh49@ymail.com/article?mid=97
Mục các điểm dị biệt của Tuần và Triệt,
TUẦN chủ bên trong, TRIỆT chủ bên ngoài.
TUẦN chủ trọn vẹn. TRIỆT chủ nửa chừng.
Tuần chủ vào. TRIỆT chủ ra.
TUẦN chủ phòng. TRIỆT chủ trừ, trị.
TUẦN chủ Trọng, xem làm trọng… TRIỆT chủ Khinh, coi nhẹ, xem làm nhẹ…
TUẦN chủ hít vào TRIỆT chủ thở ra.
TUẦN là dấu cộng TRIỆT là dấu trừ.
Phần viết mới.
TUẦN tên đầy đủ là TUẦN TRUNG KHÔNG VONG. TUẦN hành HOẢ, âm tính
TRIỆT tên đầy đủ LÀ TRIỆT LỘ KHÔNG VONG. TRIỆT hành Kim, âm tính
*TUẦN di chuyển theo chiều ngược kim đồng hồ, chu kì 60 năm.
*TRIỆT di chuyển theo chiều ngược kim đồng hồ, chu kì 5 năm
TUẦN di chuyển trên 12 cung. TRIỆT di chuyển trên 10 cung. Không đóng tại 2 cung Tuất Hợi
*TUẦN và TRIỆT đóng cùng một lúc trên 2 cung. Tác động đến 6 cung tam hợp, xung chiếu. đa phần các lá số, trên 12 cung số nếu không chịu tác động của TUẦN ắt chịu sự chi phối của TRIỆT. Cung nào không gặp TUẦN hay TRIỆT là trường hợp cá biệt. Cho nên thiếu hiểu biết về 2 sao này có thể xem như không thể luận đoán được TỬ VI.
*TUẦN và TRIỆT có 1 số điểm tương đồng, đồng thời có những điểm dị biệt. Điều đáng nói là những điểm dị biệt đôi khi lại bổ sung cho nhau, đôi khi lại xung đột lẩn nhau. Vì vậy nghiên cứu 2 sao cùng một lúc để tiện so sánh, dễ nắm vững vấn đề.
KHÔNG VONG là gì?
Không là không nhớ và vong là quên đi.
Ta có ví dụ 2 con người nói đến Không Vong với 2 thái cực khác nhau.
Sao tôi không nhớ gì cả quên mất hết những gì đã gặp.
Trái lại tôi thì muốn quên đi nhưng không thể thể quên được.
Quên đi có thể là điều rất xấu hại cho việc học hành. Và cái không bao giờ quên có lợi cho việc học tập nghiên cứu nhưng trong đời thường nó cứ ám ảnh chúng ta hoài, khổ tâm vì những ấn tượng xấu. Ta lại có trường hợp thứ 3 là.
Tôi thì cái gì cần không bao giờ tôi quên, cái tôi không bận tâm tất không bao giờ tôi nhớ nổi. Tim tôi không quan tâm, mắt tôi có nhìn cũng không thấy.
TUẦN chủ đúng, trúng. TRIỆT chủ sai, trật.
ĐÚNG hay SAI làm sao mà biết?
Có những việc đúng sai ta không hề biết. Ta cho rằng đi bên phải là đúng, các nước thuộc Liên Hiệp Anh cho thế là sai. Có những việc trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Có những cái trước đúng bây giờ lại sai. Có cái đúng nơi nầy nhưng sai với nơi khác. Có những cái sai với người nầy nhưng đúng với người khác. Có những cái đúng vào thời điểm nầy nhưng sai với thời điểm khác. Với gia đình ta là kẻ sai nhưng xã hội cho rằng ta đúng và ngược lại.
Nhưng cần biết không đúng tức là sai. Ví dụ: anh nói không đúng tí nào tức là sai. Không sai tức là đúng. Anh nói không sai tí nào tức là đúng. Vậy TUẦN đúng chớ gặp THIÊN KHÔNG và TRIỆT sai vui mừng khi có sao nầy, vì nó chủ trừ đi, bỏ đi cái sai. TRIỆT KHÔNG là tốt.
Trong trường hợp có cả TUẦN lẫn TRIỆT là biết phân biệt đâu là đúng đâu là sai. Hay nhất là THAM LANG hoặc PHÁ QUÂN gặp cả 2 sao nầy được kể như là tốt. Nếu có cả TUẦN TRIỆT và THIÊN KHÔNG tức tam Không tức đúng sai lẫn lộn.
Chỉ có TUẦN thôi thì thấy đâu cũng đúng.
Chỉ có TRIỆT thôi thì thấy đâu cũng cho là sai.
Nhưng quan trọng là chính tinh có hợp TRIỆT TUẦN hay không là điều tối quan trọng. Cái đó chúng ta sẽ biết ở sau.
Đúng tốt, xấu:
Có những cái đúng hay, trúng hay nhưng cũng có những cái đúng dở. Làm đúng, bắn trúng, đoán đúng, trúng cữ, trúng tuyển, trúng số, trúng thưởng.…
Những cái đúng xấu là đúng tội, đúng người, bị bắn trúng… vì Tuần là bộ sao được xem làm trọng, trong ý xấu là trọng tội (Tuần Hình), trọng nạn, trúng nạn (Tuần Kiếp), trọng bệnh, trúng bệnh (Tuần Bệnh Phù)…
Trật, sai thường gây ra tai hại như làm bài trật, sai. Dự đoán sai, chọn người sai, đi sai, đánh sai mục tiêu…Sai đi với lầm là sao THẤT SÁT. Nhưng chú ý TRIỆT tại Thân Dậu là quán triệt, tức không phạm sai lầm.
TUẦN chủ ngoan, dễ bảo… TRIỆT chủ bỏ ngoài tai.
Đây là yếu tố rất giống với bộ Kình Đà, ĐÀ như Tuần và TRIỆT như KÌNH. Từ đó 2 bộ sao nầy pha trộn vào nhau, cho ta nhiều dạng tính tình khác nhau. Tuần Kình, Tuần Đà, Triệt Đà, Triệt Kình. Ví dụ. Thằng bé nầy ngoan không anh?
- Nó ngoan lắm. (có khả năng có cả TUẦN và ĐÀ)
- Nó ngoan lắm nhưng cũng cứng đầu lắm, cái gì không ưa chống lại bằng thích (Tuần và Kình)
- Nó cũng ngoan nhưng có cái nó bỏ ngoài tai (TRIỆT ĐÀ)
- Chao ơi! Nó cứng đầu lắm (Kình) nó bỏ ngoài tai (TRIỆT) nói cũng vô ích thôi.
TRIỆT bỏ ngoài tai vì TRIỆT cho là cái đó sai, không đúng nên chống đối lại một cách triệt để, từ đó ta có những con người có tính cương quyết khi chống đối. Vấn đề còn lại là Chính tinh tọa thủ có hợp và dùng được bộ TRIỆT KÌNH không mà thôi.
Tuần là ngoan nhưng lãnh đạo thì không thể ngoan được vì thế TỬ VI không thích hợp với TUẦN và càng không thích hợp với TRIỆT vì TRIỆT chủ loại trừ ra, bị xem nhẹ, coi khinh, bí mật bị lộ…
Cũng từ Tuần ngoan, Triệt trừ bỏ mà như trên (bài trước) mà Tuần là mẫu người chung thủy, trọn vẹn. Còn Triệt chỉ nửa chừng rồi thôi, rất kỵ gặp THIÊN TƯỚNG, đóng tại Thân dễ nửa chừng xuân, thân thể không vẹn toàn vì bị trừ.
Bộ Tuần Triệt và bộ Kình Đà. Một bộ trôi xuôi, một bộ trôi ngược. Tuần phòng khắp lá số TỬ VI lưu động theo năm tháng ngày giờ, khiến chúng ta luôn luôn có việc phải quan phòng, có việc phải theo, có việc phải chống….
TUẦN là giáo dục… TRIỆT là kiến thức, hiểu biết.
Tiểu đề nầy người viết đã bàn rồi nhưng trong bài viết chính thức lại không thấy. Nên bàn lại đây để sáng tỏ thêm. Tuần chủ ngoan dễ tiếp thu, từ đó Tuần là ngôi sao dễ giáo dục và đem sự giáo dục của mình để giáo dục lại kẻ khác. 2 phần 3 số người có Tuần hội họp tại MỆNH và chỉ cần xê dịch một, hai đại hạn là đã gặp Tuần rồi. Tuần là bộ Giáo Dục, đi với ĐÀ là ngành Hướng Dẫn, đi với Đào Hoa chủ đào tạo, huấn luyện. Đào tạo, giáo dục, hướng dẫn là những từ ta thường nghe, thường nói. Triệt là kiến thức, sự hiểu biết đạt đến đỉnh cao là sự quán triệt, khi có kiến thức thì đương nhiên Triệt được quyền loại trừ. Hừ cái đó là mê tín, cái đó là thiếu khoa học, cái đó là ác, cái này là xấu lắm nghe… Triệt là cái lưới sàng lọc là chất bán dẫn trong transitor pnp hoặc npn chỉ cho qua một chiều mong muốn. Vì thế nó được quyền loại trừ sau khi đã được trang bị kiến thức.
Quan trọng là đừng bị KỴ TRIỆT vì đó là cách bị ghét, bị loại trừ.
TUẦN: KẺ TRONG CUỘC. TRIỆT: KẺ NGOÀI CUỘC…
Đừng vội nghĩ kẻ trong cuộc là hay, kẻ ngoài cuộc là dỡ.
“A và B và tất cả anh em của nó đều chung một cuộc can tội tàng trữ, mua bán ma tuy”́. Ví dụ bạn có liên quan, bạn mong sao mình là kẻ ngoài cuộc
Có những cuộc tốt đẹp ta đứng vào đúng là may mắn. Còn những cuộc xấu xa kẻ đứng ngoài là kẻ may mắn. Trên lá số TỬ VI có tới 8/12 cung là kẻ trong cuộc và cũng chừng ấy cung là kẻ ngoài cuộc.
Có những cuộc hay cũng có những cuộc dở, cuộc hay ta đứng vào trong, cuộc dở ta đứng bên ngoài. Cuộc là từ đầu môi chót lưỡi. Nào là cuộc chiến, cuộc đời, cuộc tình, cuộc bể dâu, cuộc chơi, bỏ cuộc chơi, cuộc cờ (… cờ đang dở cuộc không còn nước. Bạc chửa thâu canh đã chạy làng).
Từ vị trí nhìn thấy sao Tuần là kẻ trong cuộc nếu tốt đẹp là cuộc vui, xấu là cuộc buồn phiền, nếu cát hung tương bán là vui buồn lẫn lộn. Nếu từ vị trí sao Tuần nhìn ra ta thấy toàn cuộc buồn phiền thì chạy đâu cho thoát. Từ vị trí nhìn thấy sao Triệt nếu thấy Hung tinh ta đứng ngoài cuộc ấy vì tính chất của sao nầy trừ hung họa (thật ra bằng sự hiểu biết) nếu có Cát, Hỉ tinh là kẻ trong cuộc ấy vì TRIỆT chủ lộ ra những cái tốt đẹp, tức nó gạt những xấu xa qua một bên và đứng bên phía tốt. Nếu thế ngộ Triệt tức đang ở chung với TRIỆT nó vừa trừ hung bên trong và chống đỡ với tai họa bên ngoài. Với điều kiện không có KỴ.
C |
B TUẦN TRUNG |
TUẦNTRUNG B |
TRIỆT LỘ C |
C |
BỘ TUẦN và TRIỆT
|
TRIỆT LỘ C Mệnh của E |
|
A |
B |
||
A |
A |
A |
B |
Tuần là sao hấp thu, hít vào, nhập vào… nên cái gì cũng tiếp nhận hết. Các vị trí có chữ B quá thiên về Tuần.
Triệt là sao của loại trừ nên loại trừ các cái xấu ra và làm lộ ra những cái tốt.
Tuần Trung tức thu vào trong, Triệt Lộ tức là trừ bỏ ra ngoài. Do lười biếng ưa viết tắt nên không thấy hết ý hay của nó.
Từ các vị trí có đánh chữ A ta có cả Tuần lẫn Triệt, ta dễ phân biệt đâu đúng, đâu sai. Ta có cả phòng và trừ. Có cái ta tuân theo có cái ta trừ đi. Có cái ta sẵn sàng là kẻ trong cuộc, có cái có đẩy ta vào ta cũng quyết đi ra. Khi cần ta ở trong nhà, khi cần ta ra đứng ngoài lộ. Nếu ta chỉ thấy 1 sao thôi quá thiên về sao ấy. Ví dụ như Tuần ăn rồi ru rú trong nhà, hoặc Triệt sống ngoài đường là chính. Tất nhiên có người ngồi trong tốt hơn ra đứng đường. Lại có người muốn sống phải ra đứng lộ.
Trong nhà và ngoài đường là cụm từ ngày nào mà chẳng nói. Thế nhưng hỏi trong nhà là sao nào ngoài lộ là sao nào. Chẳng ai biết. Bây giờ thì biết rồi đấy. Thân Mệnh có Tuần ưa ở trong nhà thôi. Và nếu có Triệt ưa đi.
Thằng bé này có ngoan không anh anh? Ối dào nó ăn rồi đứng đường thôi. Chắc thằng bé có bộ KÌNH TRIỆT quá. Bởi vậy có câu: Kim ám Kình Dương phản hiềm tao khốn. Sống người đường dễ sinh chuyện hơn trong nhà, vì phải tiếp xúc nhiều.
PHẾ và LẬP:
* Liên quan đến cách TUẦN xem trọng, TRIỆT coi khinh, xem thường. như ‘Phế trưởng lập thứ’ là TRIỆT KÌNH, TUẦN ĐÀ. Vì Triệt chủ sự phế bỏ, đi với Đà có KỴ là Triệt hạ, hạ bệ.
Hay nhất là cách TUẦN KÌNH được tôn trọng và nâng lên cao tất nhiên cần đi với Cát tinh.
Khi TUẦN thấy chung quanh mình toàn Cát, Hỉ tinh chủ sự được tôn trọng, tôn kính, trọng vọng, là nhân vật trung tâm… nhưng chớ gặp KỴ HÌNH dễ nguy hiểm bản thân.
Khi TRIỆT thấy chung quanh mình toàn Cát tinh, Hỉ tinh tất được sự ngoại lệ miễn trừ, bất khả xâm phạm… nhưng cũng kỵ gặp HÓA KỴ. Tuần Triệt chủ xem trọng, coi khinh kết hợp với bộ Kình Đà đưa lên hạ xuống làm cho cuộc đời cực kỳ sinh động.
TUẦN THUỘC NHÓM SAO ẨN. TRIỆT THUỘC NHÓM SAO LỘ.
Các sao ẩn gồm có:TỬ VI, THÁI ÂM, ĐÀ LA, TUẦN.
Các sao lộ gồm có: THIÊN LƯƠNG, THÁI DƯƠNG, KÌNH DƯƠNG, TRIỆT.
Dĩ nhiên nhóm sao ẩn, lộ thích hợp, thích nghi với những sao cùng nhóm.
v TUẦN chủ QUAN TRỌNG, TRIỆT chủ MIỄN TRỪ:
Thuộc nhóm sao có tầm quan trọng khi có mặt các sao này, tuỳ thuộc Hung, Cát, Hỉ tinh để luận đoán như đại quan, đại sự, rất to lớn về chức vụ, về vui mừng,...
TUẦN: Chủ quan trọng. Như nhân vật quan trọng, sự việc nghiêm trọng…
KHÔI VIỆT: Chủ bộc phát lớn. Như bộc phát công danh tài lộc, bộc phát tai hoạ, dịch bệnh
ĐẠI HAO: Chủ to. Như quan to, đại náo thiên cung, đại hỉ sự, đại tang...
HỒNG LOAN: Chủ lớn. Nói lớn, chức vụ lớn, bằng cấp lớn, vui mừng lớn, tai hoạ lớn
THÁI TUẾ: Chủ rất. Đi với ĐẠI HAO chủ rất to. Chú ý không gặp HỒNG LOAN. Đi với KHÔI VIỆT chủ bộc phát rất lớn, đôi khi thái quá. Đi với TUẦN chủ rất quan trọng.
CĂN CỨ VÀO NHÓM SAO KỂ TRÊN ĐỂ KẾT LUẬN SỰ VIỆC, SỰ CỐ, SỰ TÌNH, CHỨC VỤ….
TRIỆT khi tốt là ngoại lệ, được quyền miễn trừ, bất khả xâm phạm.
ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG của Tuần và Triệt.
CHỦ MẤT, CHỦ VONG.
* Như mất người, mất của, mất địa vị, mất sức khoẻ, mất tình cảm, uy tín, mất tổ quốc, mất quê hương…phù hợp với các sao mất mát khác là THIÊN KHÔNG, THẤT SÁT. Trên lá số TỬ VI ta có thể tìm thấy một số vị trí chịu sự tác động cả TUẦN lẩn TRIỆT. Từ vị trí này ta có thể tìm thấy sao THIÊN KHÔNG ta gọi đó là bộ TAM KHÔNG rất kị gặp TỬ VI, bộ ÂM DƯƠNG có thể đưa đến mất mạng. Vì thế hạn chết thường gặp ở 2 sao nầy lại có thêm lưu Tuần, lưu Triệt. Nhất là lưu tại Thân, Mệnh.
Ví dụ kể từ năm 1974-1983 sao lưu Tuần đến đóng tại Thân Mệnh ông Thiệu với bộ LIÊM TƯỚNG.
CHỦ TRỐN:
* Đi với các sao di chuyển tạo ra lưu vong, đào tẩu, đi lánh, đi tránh, tị nạn…phù hợp một số sao như VŨ KHÚC, CỰ MÔN, THAM LANG, ĐÀO HOA, LƯU HÀ, THIÊN MÃ. TUẦN TRIÊT đi với nhiều sao của nhóm ‘đào thoát trốn chạy’ tức là từ chạy đến chạy. Lúc đó TRIỆT LỘ là trên đường tị nạn, trên đường đào tẩu.
CHỦ QUÊN. SỰ QUÊN LÃNG:
* Quên như quên tình, quên nghĩa, quên tổ quốc, ông bà, cha mẹ, vợ chông, anh em, con cái…bỏ quên đồ vật... Có thể đưa đến bệnh lý. Bệnh hay quên khiến trở ngại cho việc học tập, căn bệnh của người già. (Quên thiên về sao TRIỆT đối với TUẦN yếu tố nầy không có nhưng khi có cả 2 sao yếu tố nầy mới mạnh hơn, là cái quên, cái nhớ. TUẦN là một sao tập trung rất mạnh). Khi hình thành cách Tam Không nạn nhân của sự quên lãng, bỏ sót. Không nhớ là để quên ở đâu. Thậm chí tên mình cũng không nhớ. Vì thế TRIỆT TƯỚNG là cách vong ân, vì quên không đền ơn đáp nghĩa.
TUẦN và TRIỆT có 3 điểm tương đồng quan trọng và nó hợp với THIÊN KHÔNG KHÔNG VONG thành bộ sao tam Không, tam Vong đem lại những cái không may, không còn, cái vong, cái mất mát và từ đó chìm vào quên lãng của người đời.
Trong Cơ Thể: TUẦN chủ sự TUẦN HOÀN, HẤP THU...TRIỆT chủ sự ĐÀO THẢI…
Như ‘Tuần hoàn máu’, ‘Tuần hoàn não’, ‘Hấp thu chất dinh dưỡng, hít vào... Đào thải chất cặn bả, chất độc ra ngoài cơ thể, chỉ sự thở ra...
Vậy thì TUẦN tốt là hít thở bầu không khí trong sạch, ăn uống thanh sạch… từ đó ít vướng phải binh tật. TRIỆT tốt là loại trừ đào thải tốt nhưng đóng tại Thân bất lợi như đã nói, ở Tật là hay như câu phú người ta thường nói: “TRIỆT TUẦN đóng ở Ách cung, Tai nào cũng khỏi hạn phùng cũng qua” nhưng chớ gặp THIÊN KHÔNG dù có TRIỆT ở Kim cung cũng rắc rối về sự đào thải.
VẬT DỤNG:
TUẦN: Sợi dây dạng tròn, đồ vật hình tượng có dạng tròn, hình vuông hoặc hình gì cũng được miễn sao nó nối tiếp nhau, khép kín là con đường nối tiếp nhau liên tục hoặc khép kín. Tuần là bờ rào, là tường vây, là căn phòng ta đang ở, là xâu chuổi ngọc tốt xấu tùy thuộc Hung Cát tinh là còng số 8 là vòng nhắm để bắn trong súng bắn tỉa là từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi mà các chiến binh ai cũng biết. Chỉ còn chờ nghe khẩu lịnh là bắn.
TRIỆT: Là con đường cụt có lối vào mà không có lối ra, không thông suốt. Là cây thước kẻ, là những vật dụng có tính sàng lọc.
Trong đời sống ta thường gặp Tuần Triệt như là: Chiếc xe có các bánh thì tròn là Tuần để bon bon chạy và Triệt là cái thắng
TUẦN TRIỆT có vị trí đắc ý, đắc địa không?
“HOẢ phùng KHÔNG tắc phát. KIM phùng KHÔNG tắc minh”
“TRIỆT đáo Kim cung, TUẦN lâm Hoả địa”
“TRIỆT mà gặp được Kim cung. Tinh thần thanh thản ung dung muôn phần.”
Trên là 3 câu phú sưu tầm được. Tuần lâm Hỏa Địa con nhà Giáp Thân được hưởng cách nầy (tức từ Giáp Thân đến Quý Tị). Triệt đến Kim cung các tuổi Giáp, Kỷ mới có. Tính ra chỉ có 2 tuổi ưu tiên được cả Tuần lâm và Triệt đáo là Giáp Thân và Kỷ Sửu.
Tuần đến hỏa thì Phát, Triệt đến kim thì Sáng. Tuần Phát đây là phát trọng vọng, phát sinh sự dạy dỗ tùy thuộc vào nội dung của chính tinh như VŨ thì phát tài, TƯỚNG thì phát tướng, tương trợ thương yêu… nhưng đi với Hung Kỵ Hình vẫn là phát súng nhưng có chết vẫn được người đời thương mến.
Triệt được hưỡng ưu đãi, ưu tiên được ngoại lệ miễn trừ, bất khả xâm phạm, tinh thần minh mẫn, thông minh phát sáng uy danh, xóa bỏ tị hiềm. Cũng vẫn kỵ gặp Hóa KỴ tuy không sợ KHÔNG KIẾP và nội dung chính tinh trong đó nhất là THIÊN TƯỚNG (Tôn Tẩn là thí dụ điển hình, bị Bàng Quyên tẩn cho một cái thành thương binh may chưa trở thành liệt sỹ).
Thực tế TRIỆT hay ở Thân với tuổi Giáp là TRIỆT PHI LIÊM trừ bỏ đi, xóa bỏ đi những chia rẻ, thị phi, sai trái của sao nầy… ở Dậu lộ ra những vui mừng như hoa đơm bông kết quả.
Với Kỷ tại Thân là cách Khôi Phục hay nhất, ở Dậu là đại lộ lớn đang chờ.
MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN:
“TUẦN, TRIỆT định yếu đắc dụng. THIÊN KHÔNG tối vi khẩn yếu”
Đây là câu phú được người viết yêu thích nhất. Hầu như nói đến các sao kể trên người ta chỉ nhìn thấy cái xấu của nó mà không thấy cái tốt, hầu như không biết cái tốt của nó là gì lấy đâu để đề cao (Kình) và cứ thế hạ thấp (Đà) gây oan ức cho bộ sao hay Đúng Sai, Giáo Dục và Hiểu Biết, Tôn Trọng và Miễn Trừ, Phòng Trừ tai họa… ám ảnh Không còn và Mất. Có chăng không còn khổ, mất nghèo thì có. Đi với Cát Tinh, Hỉ Tinh tăng giá trị các sao lên cao. Trừ khử được hung họa vì thế nó đắc dụng. TRIỆT là lá chắn thành đồng, TUẦN là tập trung trí tuệ, sức ngưới sức của để phát huy thế mạnh. Chỗ đắc dụng của 2 sao nầy thì nhiều, phần tác họa của nó thì ít.
Cũng như THIÊN KHÔNG phát huy cái lắc đầu đúng nơi đúng chỗ. Sai ư? Không sai đâu tức là hưởng cách đúng ngon lành (cách KHÔNG TRIỆT). Nghi ngờ ư, ghét ư, cấm ư? Có THIÊN KHÔNG vào khỏi bị nghi ngờ, ghét bỏ (cách KHÔNG KỴ). Đến đây khối kẻ thèm ông THIÊN KHÔNG chỉ sợ ông đứng không đúng nơi đúng chỗ.
Câu nầy còn hay ở điểm định yếu đắc dụng, chứ không đắc địa là quan điểm ưa thích của Bửu Đình, ta cần biết rằng có một số chính tinh bất lợi với TRIỆT.
“TUẦN, TRIỆT đương đầu thiếu niên tân khổ
TAM KHÔNG độc thủ phú quí nan toàn”.
Đương đầu tức ngay chình ình tại cung MỆNH và cung đại hạn thứ nhì cũng đi qua TRIỆT hay TUẦN. Ví dụ như bản đồ trên, nếu người MỆNH E đại hạn thứnhì đi qua cung Thân bị cú TRIỆT đương đầu rất nặng. Vì 20 năm liên tiếp bị ảnh hưởng của sao nầy trong đó có những năm có lưu Kỵ hội họp. Nhưng nếu đại hạn thứ nhì lại đi qua cung Tuất thì tuổi thành niên rõ ràng dễ thở hơn nhiều. Khi bị đương đầu lại chui sâu vào 20 năm trong đó ta dễ gặp hoàn cảnh mất cha mẹ, phải gánh lấy công việc của cha mẹ, hoặc của anh em trong suốt 20 năm trời quá dài cho một đời người.
“Tam phương xung Sát hạnh nhất TRIỆT nhi khả bằng. Tứ chính giao phù tối kị KHÔNG nhi trực phá”
Câu nầy dễ gây ngộ nhận là TUẦN cản ngăn Cát tinh. KHÔNG là THIÊN KHÔNG khi Cát tinh giao hội ông THIÊN KHÔNG lắc đầu nói không, không phải quyền đâu, không phải là lộc đâu, không phải là khoa học đâu… THIÊN KHÔNG là ngôi sao phản tác dụng đi với tốt biến thành xấu. Câu phú trên là một câu đối hoàn chỉnh, nên khi bên nầy nói TRIỆT thì bên kia nói TUẦN, từ đó gây ngộ nhận KHÔNG nầy là TUẦN rất có lý. Nhưng khi đặt ra một câu phú ở thể đối là tay rất tài giỏi. Nhưng muốn bày tỏ sự bất lợi của TRIỆT và của THIÊN KHÔNG tỏ ra lúng túng là điều có thể thông cảm. Nếu là Tuần thì tốt hay xấu đều chấp nhận tuốt. Chẳng lẽ tiền tài, danh vọng, sự tốt đẹp lại không chấp nhận lại đi chấp nhận sự xấu xa.
TỔNG QUÁT về Các Chính Tinh và Bộ TUẦN TRIỆT.
Bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM
Các sao TỬ VI và THIÊN PHỦ đều rất kỵ TRIỆT. Đối với TUẦN có phần bất lợi nhất là TỬ VI phải chịu sự sai khiến tuân theo, có tính bù nhìn, chứng tỏ chưa tài năng, bí mật lại bị lộ, không sớm thì muộn cũng trừ bỏ nhiệm vụ. THIÊN PHỦ có phần ít bất lợi hơn nó chủ phủ dụ, hiệu triệu… nhưng ở trong nhà thì hiệu triệu được ai.
Với THIÊN TƯỚNG gặp TRIỆT là vong tình cách quên ân bội nghĩa, trừ bỏ người nầy thương yêu người kia, từ đó dễ bị lộ mặt, lộ diện bị vạch mặt là đây. Nhưng với TUẦN thì lại tốt chủ sự trọn ven, trọn tình, trọn nghĩa, chung thủy, trọng nghĩa là cách nầy.
Với VŨ hay LIÊM gặp TUẦN hay TRIỆT đều tốt. Tài năng như Vũ cần phải lộ ra mới biết người có tài (nhưng mặt tài chính thì bất lợi). Với Đạo đức của Liêm lộ ra mới biết con người đạo đức nhưng chớ gặp thêm KỴ. Cả 2 sao nầy gặp TUẦN đều tốt với VŨ là tài năng đáng tôn trọng là trung gian để hòa giải. Với LIÊM hưởng 2 chữ trung trinh.
Bộ SÁT PHÁ THAM.
THAM PHÁ gặp TUẦN TRIỆT là quá tốt. Lòng ham muốn biết đúng biết sai, ham đúng nơi đúng chỗ, không phải cái gì cũng ham được, không phải với ai cũng sẵn sàng gắn bó. Gắn bó với người nầy nhưng không thể gắn bó với người khác. Tính khám phá, tò mò lại cao không phải cái gì cũng tò mò khám phá nhờ sự đúng sai đó khám phá dễ thành công, tập trung (tuần) để tìm hiểu cho bằng được.
Nhưng với THẤT SÁT lại là khác, ngôi sao thiên về mất được bản chất cũng là vong tinh nhưng không mang danh vong tinh mà thôi. Thành ra đi với TUẦN TRIỆT cái vong, cái mất đạt cao trào.
Bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG.
Chưa bao giờ có câu phú nào bàn đến TUẦN TRIỆT tác dụng xấu tốt với nhóm sao nầy vì đây là nhóm sao đàn bà trẻ con hiền hòa, lương thiện. (trừ THÁI ÂM ).
Với Cơ hiền, Lương lành, Đồng phúc gặp TRIỆT lộ ra mọi người càng kính mến. Với TUẦN chữ trung càng làm thêm đẹp.
Chỉ có THIÊN LƯƠNG gặp TRIỆT có điểm bất lợi là cách bị trừ lương bổng.
Đối với THÁI ÂM xem lý luận như THÁI DƯƠNG ở dưới.
Bộ CỰ NHẬT:
Với CỰ MÔN đi với Tuần có nghĩa là phản đối đúng, phản đối sự việc có tính quan trọng… đi với TRIỆT là phản đối sai, hoặc trừ bỏ sự phản đối, không phản đối kháng cự. Tùy tình hinh để kết luận do hung, cát tinh. (Tấm hình khả năng treo ngày hôm nay là cửa Chương Đức vì Tuần là tường rào, khuôn viên rất cần có cái cửa để vào ra.)
NHẬT NGUYÊT là vầng trăng, mặt trời có 2 tình huống sáng tối. Khi sáng rất đại kỵ có TUẦN TRIỆT. Ví như đêm trăng tròn bị méo mất một nửa, biến thành đêm buồn tỉnh lẻ. THÁI DƯƠNG sáng như ngày đẹp lại bị TUẦN TRIỆT là ngày mất vui vì gió mưa bất chợt, một ngày không bình yên. Chỉ vui được nửa ngày.
Một số thành ngữ liên quan đến Tuần và Triệt:
Các thành ngữ liên quan đến bộ sao nầy nhiều lắm. Xem trọng và coi khinh. Vào ra. Hiểu biết…
“Tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng tựa thiên kim”
Phấn thổ là bụi đất, thiên kim là ngàn vàng chỉ sự nặng. Tiền tài nhẹ như bụi đất. Nghĩa nặng tựa ngàn vàng. Đó là cách Tuần Tướng Vũ Triệt.
“Vào sinh ra tử”
Vào sống ra chết. Vào là TUẦN và ra là TRIỆT. Tại sao vào lại sống ra lại chết, điều nầy ít ai biết. Vì ngày xưa chúng ta thường ở trong thành. Giặc đến, ra đánh dễ cầm chắc cái chết, đương nhiên vào lại trong là sống rồi.
“Mẹ tròn con vuông”.
Tròn, vuông là Tuần, mọi việc suôn sẻ. Sao Tuần chỉ sự trọn ven như ta đã biết.
“Nghĩa nặng tình sâu”.
Nặng là ĐÀ nên ĐÀ chìm, nhẹ là KÌNH nên KÌNH nổi. Nghĩa nặng tức ĐÀ TƯỚNG. Sâu thẳm là TUẦN. Nghĩa nặng tình sâu là TƯỚNG ĐÀ TUẦN.
“Diện mạo phương viên”
Là cách TUẦN TƯỚNG. Nhìn thấy là thích đem lòng thương mến. Phương viên là vuông tròn.
Trong lúc bất chợt người viết chỉ nhớ vậy thôi. Điều muốn nói là TUẦN và TRIỆT được nói đến nhiều nhất trong ngày.
Bài viết kỳ tới là PHÁ TOÁI như có người đã đăng ký.
Tư tưởng biết đúng,sai ,phải trái nhưng có chắc là hành động,xử thế lu..
Tư tưởng biết đúng,sai ,phải trái nhưng có chắc là hành động,xử thế luôn đúng theo "Phải trái đúng sai".Nhỡ đâu tư tưởng là 1 chuyện.Hành động đôi khi ngược lại với tư tưởng.Giống như câu "khôn 3 năm,dại 1 giờ"....
Vậy nếu THÂN TRIỆT thiên về hành động,ứng xử biết đúng sai,lợi thế và thực tiễn hơn nếu chỉ trên mặt tư tưởng?...???.Phải hok ạ.
Chúc chú vui! :D
Bài viết dài , rất dài và hay quá chừng. Thật cảm ơn Bác biết bao.
Đêm nay LV nhà cháu nở nữa. Hoa màu trắng này thơm dữ lắm , chắc ch..
Bài viết dài , rất dài và hay quá chừng. Thật cảm ơn Bác biết bao.
Đêm nay LV nhà cháu nở nữa. Hoa màu trắng này thơm dữ lắm , chắc cháu nghiên cứu ướp nó với trà bắc thử coi uống được không. Hihihi , nếu không thì coi chừng.
Cháu kính tặng Bác hoa Lv cháu vừa chụp xong.
Cháu kính chúc Bác luôn mạnh khỏe!
Bác ơi , cháu hỏi ngòai lề một tý : Bác thấy khu đất số 2 Nguyễn Tri Phương - Quận Hải Châu có thích hợp xây chung cư không ạ? Cháu cảm ơn Bác!
Để hiểu thấu đáo các bài viết của Bác, đối với cháu thật sự đầy cam go.
Trong bài viết Tuần Triệt và nội dung bài này, Bác viết ..
Để hiểu thấu đáo các bài viết của Bác, đối với cháu thật sự đầy cam go.
Trong bài viết Tuần Triệt và nội dung bài này, Bác viết Tuần có chu kỳ là 60 năm, còn Triệt chỉ có 5 năm. Cháu chưa hiểu tại sao như vậy, mong được Bác giải thích thêm.
Kính
Cháu thấy bác bàn về tử vi mà cứ như là viết văn vậy.
Rất là lãng mạn bác ạ.
Cháu chú..
Cháu thấy bác bàn về tử vi mà cứ như là viết văn vậy.
Rất là lãng mạn bác ạ.
Cháu chúc bác mạnh khỏe, hạnh phúc và luôn luôn có cảm hứng viết bài phân tích về tử vi bác nhé.
+ = Trà Hoa Hồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét