Bài 3. MẠC PHÚC HẢI
Cuối đời Mạc Đăng Doanh,
quan hệ với nhà
Minh trở nên căng thẳng.
Tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp: quân đội Lê trung hưng sau 7 năm chiêu binh
luyện mă đă đủ sức về đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau năm Quí Măo (1543) đă
kiểm soát được cả Tây Đô (Thanh Hoá). Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa
cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu (1541).
Lúc này, ở Trung Quốc, Minh Thế Tông đem việc Nam chinh ra luận
bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua mềm dẻo mà giải quyết việc
biên giới phía Nam, rút bài học thất bại của các đời vua trước. Họ bộ thị lang
Đường Trụ dâng sớ tŕnh bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các thời vua
trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mă Viện đến Minh Thái Tông... Thị
lang Phan Trân lại nói: "Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi
Trần vậy; nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được".
Vua Thê Tông nhà Minh và lũ triều thần bàn đi bàn lại hàng tháng
trời, rút cuộc vẫn muốn nối chí Minh Thành Tổ là chiếm nước Nam làm quận huyện
như trước. Vua Minh cử Cừu Loan làm đô đốc, Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ phụ
trách việc đánh dẹp, Hộ bộ thị lang và Cao Công Thiều đi đốc thúc quân lương ở
các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên
thuỳ phía Bắc. Nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi cho nhà Mạc là có thật.
Nhưng Mạc Đăng Dung cũng biết được nội bộ triều Minh không nhất trí trong việc
đánh An Nam. Qua viên tướng giữ châu Liêm là Trương Nhạc, vua Mạc biết là có
thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hoà b́nh. Các tham chính nhà
Minh đ̣i Mạc Đăng Dung phải đích thân đến vửa quân, nộp đất dựng mốc, bỏ đế
hiệu đă tiếm xưng và theo chính sóc (các ngày lễ mùng 1 và rằm hàng tháng, ngày
đăng quang của nhà vua) và niên lịch của nhà Minh. Đó cũng là cái cớ để cho Cừu
Loan và Mao Bá Ôn vốn ngại chinh chiến xuống phương Nam băi binh. Rút bài học
từ cha con họ Hồ,
Mạc Đăng Dung lúc này tuy đă nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu,trở
về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên: tự trói ḿnh
trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ... Ông già Mạc
Đăng Dung mặc dù ḷng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nổi nhục (khổ
nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn
là tốn rất nhiều năm xương máu của cả hai bên. Sau sự kiện quá sức đó, trở về
Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một
ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu (1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua được 3 năm,
làm Thái thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc: không làm đàn
chay cúng phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm
và xă tắc là trọng.
Tháng 10 năm ấy Mao Bá Ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc
Mạc Đăng Dung đă tự trói ḿnh dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc...
Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước
và đất, thìhăy mong tha tội cho cháu là Phúc Hải... Còn như Lê Ninh tuy tự xưng
là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rơ ràng... Thế là tháng 3 năm Nhâm Dần (1542)
Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và một quả ấn bạc và cũng tháng 12 năm đó
(1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lịch đại thống của nhà
Minh, một tờ đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được tập tước
của ông làm An Nam đô thống sứ ty
Thời Mạc Phúc Hải, theo lời bàn của thiếu sư Mạc Ninh Bang đă tiến
hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ - một lực lượng quân sự
to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều.
Trong khi đó, tại Nam Triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm
tướng đă kéo ra Yên Mô (Ninh B́nh), Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị đánh
thuốc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh
Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường
say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm
sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu. Ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ (1546), Phúc
Hải chết, ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn là Hiến Tông Hiển hoàng đế.
Bài 4. MẠC TUYÊN TÔN
Phúc Nguyên là con trưởng của Phúc Hải, nối ngôi vào tháng 5 năm
Bính Ngọ (1546). Vì vua mới nối ngôi c̣n nhỏ tuổi nên mội công việc triều chính
do người chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển quyết đoán. Nhưng triều Mạc đến đây
đă bắt đầu lục đục. Nguyên do khi Phúc Hải mất, tướng nhà Mạc là Phạm Tử Nghi
mưu lập Hoàng vương Chính Trung (là con thứ của Đăng Dung) lên làm vua,việc
không thành, Mạc Phúc Nguyên sai Kính Điển và Nguyễn Kính đem quân đi bắt Chính
Trung dời về xă Hoa Dương (xă Trác Dương, Hương Nhân, Thái B́nh), nhưng bị Tử
Nghi đánh thua. Sau vì thế cô Tử Nghi đem Chính Trung ra chiếm người cướp của ở
Quảng Đông, Quảng Tây, người Minh không thể kiềm chế được. Sau họ phải thu xếp
cho Chính Trung an cư ở xứ Thanh Viễn, hàng năm cấp phát lương thực.
VÌ lục đục nội bộ, Chính Trung ở đất Minh đem việc Nguyễn Kính
chuyên quyền tâu lên Viện đốc phủ nhà Minh. Nhà Minh ngở Phúc Nguyên không phải
là ḍng dơi nhà Mạc, đưa thư đ̣i khám xét. Vừa mới dẹp xong dư đảng của Tử Nghi
ở Hải Dương, Mạc Kính Điển và Lê Bá Ly phải hộ tống Mạc Phúc Nguyên lên cửa
Trấn Nam, dùng mọi lời lẽ thuyết phục, được quan chức Lưỡng Quảng bằng ḷng
phong cho tập tước, đó là năm Kỷ Dậu (1549)...
Sau sự kiện ấy có người dâng sớ khuyên Mạc Phúc Nguyên phải biết
tự ḿnh trông coi chính sự vì đă lớn tuổi rồi. Dù vậy, Phúc Nguyên không đủ sức
điều hành việc nước, phải nhờ cậy vào Lê Bá Ly. Năm Kỷ Dậu (1549), vua Mạc
phong cho Lê Bá Ly làm Thái tể, Phụng Quốc công, từ đó Bá Ly trở thành người
nắm giữ binh quyền và triều chính, uy thế ngày một lớn, con em trong nhà Bá Ly
đều đảm nhiệm nhiều trọng trách lớn của triều đ́nh. Và mẫu thuẫn giữa các quần
thần lại nổi lên; Phạm Quỳnh, Phạm Dao, cả hai cha con trước kia là tôi tớ Lê
Bá Ly nay có chút vinh hiển lại ghen tức gièm pha. Mạc Phúc Nguyên đă tin theo
Phạm Quỳnh,và thế là cha con Lê Bá Ly đem bộ tướng và quân gia hơn 1 vạn 4
ngh́n người trốn vào Thanh Hoá xin hàng vua Lê. Từ đó, phần lớn mưu thần mănh
tướng bỏ nhà Mạc chạy theo Lê. Thánh thế quân Trung Hưng ngày càng trở nên mạnh
mẽ. Mạc Phúc Nguyên thấy vậy lấy làm lo sợ, trao hết binh quyền cho chú là Mạc
Kính Điển, tự ḿnh rút về bảo vệ xứ miền Đông.
Tháng 7 năm Đinh Tỵ, Mạc Phúc Nguyên sai Kính Điển đem quân vào
đánh Thanh Hoá; Phạm Quỳnh, Phạm Dao đánh Nghệ An. Quân Mạc thua to. Mạc Kính
Điển phải liều nhảy xuống sông, bơi vào ẩn nấp tại hang núi chịu đói chịu khát
suốt 3 ngày, may gặp được một người đánh cá cứu sống. Thừa thắng quân Lê-Trịnh
huy động hơn 5 vạn quân thuỷ bộ tổ chức cuộc tấn công ra Sơn Nam, nhưng bị
thua, quân Trịnh tan vỡ, bỏ thuyền chạy bộ. Quân Mạc lại sai tướng chẹn lối về,
quân Lê-Trịnh chết đến quá nửa, hàng chục viên tướng bị giết, thuyền bè khí
giới bỏ lại vôkể.
Đến năm Kỷ Mùi (1559) quân Lê-Trịnh lại mở cuộc tấn công ra Bắc,
đánh phá các tỉnh hậu phương của Mạc như Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Kinh
Bắc, Hải Dương... Mạc Phúc Nguyên phải rút vào pḥòng thủ, bên ngoài thành Thăng
Long đóng đồn trại dọc phía Tây sông Nhị, dinh trại liên tiếp, thuyền bè nối
nhau; ngày thì gióng trống báo tin, đêm thì đốt lửa làm hiệu. Bị quân Trịnh đánh
trực tiếp vào các huyện Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, quân Mạc phải ra huyện
Thanh Trì.
Tháng 12 năm Tân Dậu (1561), giữa lúc cuộc chiến Trịnh-Mạc đang
gay go quyết liệt nhất thì Mạc Phúc Nguyên chết vì bệnh đậu mùa. Ông vua
Mạc trẻ này ở ngôi được 18 năm
Bài 5 Hết. MẠC MẬU HỢP
Mạc Mậu Hợp là con cả của Phúc Nguyên, sinh năm Nhâm
Tuất (1562). Khi lên ngôi mới 2 tuổi phải lấy Ứng vương Mạc Đôn Nhượng
(con trai Mạc Đăng Doanh) làm phụ chính. Năm ấy (1562), họ Mạc ngờ Thái
bảo Văn Quốc công Phạm Dao có lòng khác bèn giết đi.
Năm Giáp Tư (1564), con trưởng của Mạc Kính Điển là Đoan Hùng
vương Mạc Kính Chỉ ngầm tư thông với mẹ kế, việc bại lộ, phải giáng xuống
làm thứ nhân. Mạc Kính Điển cho lấy con thứ là Mạc Kính Phu làm Đường An
vương, giao giữ việc binh. Đến khi Kính Điển chết, vua Mạc lại cho Kính
Chỉ phục lên tước Công, nhưng không cho giữ binh quyền.
Năm Bính Dần (1566) Mạc Mậu Hợp dời về ở quán Bồ Đề, sai Lại bộ
thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Giáp Hải và Đông các hiệu thư Phạm Duy
Quyết lên địa đầu Lạng Sơn đón sứ thần Lê Quang Bí về nước.
Nguyên là vào năm Mậu Thân (1548) Quang Bí được cử đi sứ lo việc
cống tiến hàng năm. Ông đến Nam Ninh, bị người nhà Minh ngờ là quan giả
mạo, bắt phải chờ để tra xét thực hư. Nhưng rồi Quang Bí cứ phải lưu tại
sứ quán chớ minh xét. Bấy giờ Phúc Nguyên mấy năm liền bỏ việc cống nên
không dám tâu xin. Đến năm Quí Hợi (1563) viên quan ở Lưỡng Quảng mới sai
người đưa Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng công lao và tiếp tục cuộc hành
tŕnh của sứ bộ. Khi Quang Bí tới Bắc Kinh lại bị lưu giữ chờ đợi ở sứ
quán. Mặc dù chờ đợi rất lâu nhưng Quang Bí vẫn kính cẩn giữ mệnh chúa,
không tỏ ra bực tức. Thấy vậy viên Đại học sĩ nhà Minh là Lư Xuân Phương
vừa nể phục vừa thương t́nh mới tâu vua Minh cho dâng nộp lễ phẩm và cho
Quang Bí về nước. Cuộc đi sứ của Quang Bí chiếm kỉ lục về thời gian đi sứ trong
lịch sử ngoại giao nước Nam , cả đi về và chờ đợi hết 18 năm. Lúc ra đi
tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ! Người nhà Minh ví ông như
Tô Vũ xưa đi sứ sang Hung nô! Khi về đến Đông Kinh, Bí được phong Tô Quận công.
Tháng 10 năm Quí Dậu (1573), Mạc Mậu Hợp mới 12 tuổi, từ bến Bồ Đề
qua sông vào Đông Kinh, đắp thành ở bên ngoài cửa Nam, dựng một ngôi điện
bằng tranh tre để ở. Thế rồi năm Đinh Sửu (1577), Mạc Mậu Hợp 16 tuổi, lấy
con gái của Cẩm y thư vệ sự Phú Sơn hầu Vũ Văn Khuê là nàng Vũ Thị Hoành
làm vợ, lập làm Chính phi. Vào thời điểm này, ở phía Nam Triều, Trịnh Kiểm đă
chết, binh quyền vào tay Trịnh Tùng. Vua Lê và Trịnh Tùng sống với nhau
khá hoà thuận, chính sự được chỉnh đốn, quân sĩ tinh tráng khoẻ mạnh, khí
thế đang lên còn phía Bắc triều, sau khi vào Đông Kinh, Mạc Mậu Hợp ham
chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ư gì đến việc nước. Rất nhiều sớ của
các quan khuyên răn Mạc Mậu Hợp bớt dâm dục chơi bời, nhưng vô hiệu.
Ngày 21 tháng 2 năm Mậu Dần (1578), Mạc Mậu Hợp bị sét đánh vào
cung, liệt nửa người, chữa măi mới khỏi. Lúc này rất nhiều người trước kia
hi vọng những gì tốt đẹp ở vương triều mới, đă ra thi thố tài năng giúp
việc, đều chán nản, muốn rút về ở ẩn. Thấy Giáp Trừng là người hết lòng,
Mạc Mậu Hợp phong chức Thượng thư Lại bộ Luân Quận công. Ông kiên quyết từ
chối... nhưng Mạc Mậu Hợp không chấp nhận.
Tháng 10 năm Canh Thìn (1580), Mạc Kính Điển, người có uy quyền
danh vọng và là trụ cột của triều đ́nh Mạc qua đời, lòng người hoàng mang.
Chính quyền của Mạc Mậu Hợp bắt đầu bộc lộ những căn bệnh hiểm nghèo, khó
bề tránh khỏi bại vong:quan lại hèn nhát, cơ hội và vô trách nhiệm chỉ ham đục
khoét làm giàu. Triều thần thì không hiến được kế sách gì để chống lại
địch. Ứng vương Mạc Đôn Nhượng giữ quyền phục chính quyết định mọi việc
nhưng lại thường về sống ở Dương kinh, vì thế việc triều bê bối không ai
quyết đoán. Các quan có việc đến yết kiến bẩm báo, vua không giải quyết
nổi. Còn quan phụ chính thì khó gặp. Từ đó triều thần trễ nải, không tới
công đường, tránh né không chịu bàn việc.
Hàng đống sơ tấu tâm huyết gửi lên khuyên Mạc Mậu Hợp thay đổi
chính sự, song vô hiệu.
Năm Tân Tỵ (1581), Mạc Mậu Hợp lại bị chứng bệnh "thong
manh" mắt mờ không rơ, sau chữa măi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mậu Hợp lại
lao ngay vào ăn chơi. Năm Nhâm Ngọ (1582), Mậu Hợp cho dựng một ngôi điện,
gọi là điện Giảng học, danh nghĩa là vậy thực ra đấy là nơi yến tiệc, chơi
bời. Ngôi điện vừa làm xong thì một buổi tối bị hỏa hoạn, cháy trụi. Năm
Đinh Dậu (1585), Mạc Mậu Hợp vào ở hẳn trong kinh thành Thăng Long, sai tu
sửa kinh thành, xây dựng lại với quy mô lớn, công việc xây dựng rất khẩn
trương (xong trong 1 năm). Vào thành, Mậu Hợp chỉnh đốn xe ngựa, mở triều
ban văn vơ... thăng Giáp Trừng, Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lên các chức
vị cao sang nhất, nhưng họ việc lư do từ chối hoặc xin nghỉ việc. Ngay cả
ông chú của Mạc Mậu Hợp là Mạc Đôn Nhượng cũng xin giải nhiệm.
Năm Đinh Hợi (1587), Mạc Mậu Hợp lại một lần nữa tu bổ gia cố
thành Thăng Long và chỉnh trang các đường phố. Hợp sai các xứ Tây (Sơn
Tây) và xứ Nam (Sơn Nam ) đắp lũy đất, trồng tre gai chạy suốt từ sông Hát
xuống đến sông Hoa Dinh dài chừng vài trăm dặm. Đây là công tŕnh pḥòng ngự
của Mạc Mậu Hợp. Sau đó theo lời khuyên của Giáp Trừng, vua Mạc còn cho
đắp thêm 3 luỹ đất ở bên ngoài thành Đại La từ Nhật Chiêu qua Tây Hồ và
Cầu Dền đến tận bến Thanh Trì. Các lũy này cao hơn thành cũ Thăng Long tới
vài trượng, rộng 25 trượng, 3 lần hào, cắm chông gai, bao vây ngoài thành.
Nhiều việc trái luân thường đă xảy ra trong triều thần họ Mạc: Năm
Canh Dần (1590), vợ Mạc Kỉnh Chỉ không chịu kém chồng, tư thông và ẩn trốn
tại nhà Hoàng Quận công, là tướng dưới quyền chồng mình. Việc vỡ lở, cả
hai đều bị giết. Chính sự triều đ́nh Mạc Mậu Hợp ngày càng đổ nát, binh
lực suy yếu, lòng người ly tán.
Giữa lúc đó, quân đội Lê-Trịnh tấn công liên tiếp vào hậu cứ quân
Mạc. Có lúc đă huy động lực lượng chống trả đến 10 vạn quân, nhưng nhà Mạc
vẫn thua trận. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành Thăng Long sang bến Bồ Đề, chia
quân giữ phía Bắc sông Cái để tự vệ.
Khốn đốn là vậy mà Mạc Mậu Hợp vẫn lao vào ăn chơi trác táng. Thấy
Nguyễn Thị Niên, con gái của Nguyễn Quyện, vợ trấn thủ Nam đạo Sơn quận
công Bùi Văn Khuê, em gái Hoàng hậu xinh đẹp, Mậu Hợp đem lòng yêu mến và
muốn "mía ngọt ăn cả cụm", bèn ngầm tính kế giết Bùi Văn
Khuê-một tướng tài thống lĩnh toàn bộ lực lượng thuỷ quân của Mạc-để cướp
vợ Khuê. Biết âm mưu ấy, vợ Văn Khuê mật báo cho chồng. Văn Khuê đem quân
bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, chống lại lệnh vua Mạc. Mạc Mậu Hợp mấy lần
vời không được phải cho quân tướng đến hỏi tội Văn Khuê. Văn Khuê, một mặt
đem quân chống giữ, mặt khác cho con là Bùi Văn Nguyên vào hàng quân Trịnh
và xin quân cứu viện. Trịnh Tùng rất mừng, thu nhận ngay và cho quân ra
cứu Văn Khuê. Thế là thuỷ quân, chỗ mạnh nhất của binh lực nhà Mạc do Bùi
Văn Khuê nắm giữ đă lọt vào tay quân Trịnh. Trịnh Tùng được Văn Khuê giúp rập
rơ ràng chiến thắng đă ở trong tay!
Cái mà Trịnh Tùng thiếu là thủy quân, nay đă có Bùi Văn Khuê, Tùng
liền mở một loạt nhiều đợt tấn công bằng đường thủy xuống vùng Kinh Dương
của nhà Mạc. Ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Thìn (1592), thủy quân Trịnh gồm
300 chiếc thuyền đánh vào huyện Kim Thành. Mạc Mậu Hợp bỏ chạy, quân Trịnh
thu được rất nhiều vàng bạc của cải, đồ dùng và con gái, bắt Thái hậu nhà
Mạc giải về Thăng Long. Tới sông Bồ Đề, Thái hậu nhà Mạc nhảy xuống sông
tự vẫn. Mạc Mậu Hợp sợ đến mức phải trao hết quyền bính cho con trai là
Toàn lên làm vua còn mình thì chạy trốn.
Quân Trịnh thừa thắng phá tan quân của Mạc Kính Chỉ ở Tân Mỹ thuộc
Thanh Hà, thu chiến thuyền và khí giới vô kể. Nhà cửa và các phủ Hạ Hồng,
Nam Sách, Kinh Môn, lửa cháy rực trời, dư đảng của nhà Mạc kéo nhau đến
doanh trại quân Trịnh xin hàng.
Mạc Mậu Hợp chạy trốn tại một ngôi chùa ở huyện Phương Nhăn (Bắc
Ninh). Quân Trịnh sục tới, dân địa phương cho biết Mậu Hợp đóng giả sư
ông, đến ẩn ở chùa Mô Khuê đă 11 ngày. Quân sĩ đến chùa, thấy Mậu Hợp
nghiễm nhiên ngồi xếp bằng, đang tụng kinh. Lính Trịnh gạn hỏi, Mậu Hợp
giả bộ ấm ớ đáp: "Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này,
chén muối đĩa rau hàng ngày trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức
chuyên làm". Quân sĩ thấy nhà sư ăn nói hoạt bạt, khéo léo, biết chắc
là Mậu Hợp liền bắt giữ ngay. Mậu Hợp biết không thể thoát được, bèn thú
thực.
"Mấy ngày nay, tôi ẩn nấp trong rừng rậm, quá đói khát, dám xin
một bình rượu uống cho đă".Quân sĩ cấp cho bình rượu. Uống xong, Mạc
Mậu Hợp ngậm ngùi than rằng: "Nghiệp chướng qua sâu! Nay cầu làm
một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đă làm
sự giết vua cướp ngôi, đến nỗi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như
vậy. Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước hoàng đế, để bày tỏ thực t́ỉnh. Đó là
tôi rất mong muốn".
Quân Trịnh dùng voi chở Mạc Mậu Hợp và hai kỹ nữ, giải về kinh sư.
Sau đó, Mậu Hợp phải chịu treo sống ba ngày, xong chém đầu ở băi cát Bồ
Đề, thủ cấp hiến hoàng đế nhà Lê ở hành tại Vạn Lại xứ Thanh Hoá, bị đóng
đinh đem bêu ngoài chợ.Mạc Mậu Hợp lên ngôi lúc 2 tuổi, ở ngôi 29 năm, khi
chết 31 tuổi.
Con trai Mạc Mậu Hợp là Toàn, được Mạc Mậu Hợp nhường ngôi, tự
xưng là Vũ An, nhưng không được nhân tâm ủng hộ, thế cô, ngầm trốn, cũng
bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến Thảo Tân.
Như vậy họ Mạc từ Đăng Dung đến Mậu Hợp, truyền ngôi được 5 đời
thì mất, tổng cộng được 66 năm.
Sau đó con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng. Theo sấm Trạng Trình, họ
Mạc còn kéo dài được đến 96 năm nữa mới bị mất hẳn. Về sau, con cháu nhà
Mạc không xưng đế mà chỉ trấn thủ ở vùng núi phía Bắc thôi. Sử nhà Lê chép
vào tháng 7 năm Giáp Ngọ (1594), Đà quốc công nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn
trước khi qua đời để lại thư khuyên Mạc Kính Cung rằng: "Nay họ Mạc
khí vận đă hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời. Bọn ta nên tránh ở nước
khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại
mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai con hổ đánh nhau
tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến thì nên
tránh, chớ có đánh nhau, cốt phải giữ cẩn là hơn. Lại chớ nên mời
người Minh vào trong nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than, đó cũng là
tội không gì nặng bằng". Đến năm Mậu Thìn (1688), những dư đảng
cuối cùng của nhà Mạc mới bị triều đình Lê-Trịnh dẹp yên.
Contact
me at mistake37@yahoo.com
Đây ko phải là nghiệp chướng của tổ tiên họ Mạc "làm sự giết vua cướp ngôi", mà là do vua nhà Mạc đến những đời cuối thì ham chơi bời trác táng làm lòng người phân tán mà mà đi tướng tài quan giỏi, làm lòng dân không yên. Nhà Mạc mất đi là do tội lỗi của Mạc Mậu Hợp phải gánh chịu, chứ ko thể đổ thừa cho ai được. Trời phạt mấy lần như sét đánh vào dù đang ở trong cung, gây liệt nửa người, hay vừa xây xong ngôi điện Giảng hợp thì bị cháy, lòng hiền thần ko tụ hội, thì làm sao mà ko gây nghiệp quả? Một kẻ ăn chơi làm cả một phần dân tộc phải gánh chịu nội chiến chết chóc máu xương. Thật là quá bi ai!!!
chịu lầm than, đó cũng là tội không gì nặng bằng".