Cung
này là cung quan trọng đối với cung Mệnh, vì thế gọi là cường cung. Đòi hỏi các
sao mạnh, quan trọng, thành công tụ tập tại đây. Cung này tốt hỗ trợ cho cung
Mệnh, cung Tài. Nếu cung này xấu ảnh hưởng đến cả cung Mệnh và cung Tài.
Mệnh
số một người, năng lực của người ấy, thể hiện tại Quan cung tạo ra công danh và
tài bạch là Tài cung. Ba yếu tố này quyện chặt vào nhau.
Quan
Lộc nghĩa là làm việc quan (nhà nước) và tài lộc được hưởng, vì thế cung này có
giá trị như 2 chữ công danh. Tiền của cũng từ cung này mà ra..Nhưng đa phần
chúng ta không phải là quan nhân (người làm việc cho nhà nước) viên chức. Trái
lại là làm việc tự do, hoặc làm công cho người khác.
Sự
thành công của công việc đem lại công danh cho bạn. Nhiều người thành đạt nhờ
công việc tự do như Bill Gate... Hoặc kinh doanh thành công, đến văn nghệ sĩ.…
là những người không liên quan đến nhà nước càng dễ nổi danh hơn. Có khi liên
quan đến nhà nước lại bị chê bai. Ví dụ. Đó là tu sĩ.
Đối
với thường nhân hai chữ công danh càng quan trọng hơn. Đó là dấu hiệu thành
công trong cuộc sống. Các thương nhân, doanh nhân nổi tiếng làm chủ các đại
công ty có hằng chục vạn công nhân, uy tín, uy lực bao trùm thế giới. Tài sản
hơn cả ngân khố quốc gia. Sự nghiệp của họ bền vững hơn cả người làm chính trị.
Vậy
thì, Quan Lộc cung tạo ra 2 chữ công danh. Mang ý thành công và danh tiếng.
Muốn thành công không thể nói đến công lao, công sức không phải tự nhiên mà có.
Cho dù có công trạng cũng chưa chắc đã thụ hưởng 2 chữ công danh. Vì tất cả đều
do số phận đã an bài. Cũng đừng hiểu lầm phải là quan chức mới nổi danh. Vì
chắc gì đã làm nên công trạng, biết đâu để lại xú danh. Quan trọng là làm được
cái gì có ích cho đời là có công danh. Và cũng đừng lẩn thẩn giữa công danh và
thành công về mặt tiền bạc. Có thể dùng tiền bạc mua 2 chữ chức danh thì có.
Cũng có thể lợi dụng chức danh kiếm tiền cũng có. Còn công danh do người đời
đánh giá, số phận đã sắp đặt.
Không
thiếu gì những người mong có chút công danh để làm vui lòng cha mẹ, hoặc để
chút danh thơm cho con cái...
Các
kẻ sĩ người xưa đa phần quan niệm.
“Đã
mang tiếng ở trong trời đất.
Phải
có danh gì với núi sông”.,,,
Bằng
cách chọn con đường hoạn lộ ra làm quan. Triệt lộ này dễ trở thành hoạn nạn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Trác... những người này
nổi danh nhờ tài năng, công việc của họ. Lại có người nổi danh nhờ việc làm của
họ. Ví dụ. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... việc làm của họ
là kháng chiến. Đến đây, người viết yêu cầu các bạn phân biệt rạch ròi giữa các
từ “công việc” và “việc làm”. Có như thế luận đoán mới chính xác.
Người
cung an Thân tại Quan Lộc cung, rất bận tâm đến 2 chữ công danh. Nếu như sinh
vào giờ Dần hay Thân.
Sinh
tháng chẵn dễ có thêm KHÔNG KIẾP hội họp, lại càng xấu hơn khi có KỴ.
Xấu
nhất là các trường hợp Thân cư Quan có THẤT SÁT.
Thân
cư tại đâu tầm quan trọng tại đó cao thêm, vì đó là nơi ta gởi tấm thân, nơi ta
nương nhờ. Mọi việc nơi đó cần phải tốt đẹp. Có người coi trọng 2 chữ công
danh, nhất là những kẻ cư Thân tại đó. Muốn trên thân thể của mình có chút gì
đó liên quan đến nhà nước, người của chính quyền. Tất nhiên một số người khác
không đặc trọng tâm vào đấy.
Theo
đánh giá người xưa qua phú Tử Vi.
“Thân
cư Quan kiến TRIỆT, TUẦN, KIẾP, KỴ. Nam nhân phong vân vị tế (lận đận).
Hựu phùng cát diệu vũ lộ thừa ân, khả đãi dĩ hậu.”
Nhưng
một khi Thân cư vào đó bị loại trừ ra là TRIỆT, lại bị thêm ghét bỏ là KỴ. Có
cả ức hiếp là KIẾP. Chỉ vướng 1 trong 3 sao này thôi là thấy hoạn lộ gian nan
Chỉ
1 sao TUẦN tấm thân cũng bị hạn chế.
Cung
an Thân tối kỵ THẤT SÁT, KIẾP, TRIỆT dù
ở đâu cũng thế. Nam nhân Thân cư tại Quan Lộc cung ước mong có tí cân đai y bố
rõ ràng là khó thành, có chăng là vật hy sinh khi cần thiết.
TRIỆT
tại cung Quan dù cung này tốt đi mấy, cũng là chỉ dấu đổ vỡ giữa chừng. Vì TRIỆT là dễ thấy cái “nửa chừng”. Càng cao
danh vọng càng dày gian nan. TRIỆT tại Quan cung còn ảnh hưởng đến cung Điền và
Nô Bộc. Sự thay đổi công việc kéo theo thay đổi về nhà cửa rồi bạn bè.
Thân
cư ở cung Quan tốt đẹp khác gì hưởng (vũ lộ thừa ân) ơn trời lộc nước cũng là
chuyện rất bình thường.
“Thân
cư Quan Lộc hội Sát diệu, TRIỆT, TUẦN. Nữ Mệnh nan bảo thanh danh, gia kiến
TANG, BẠCH cô thân chích ảnh nghi gia vãn tuế tất thành.”
(Sát
diệu là THẤT SÁT thuộc chính diệu. Sát tinh là HOẢ LINH KHÔNG KIẾP)
Đối
với nữ nhiều người cũng muốn nhu cầu 2 chữ công danh, dù là làm nghề dạy học
thôi. Nhưng bằng chứng trên các trang mạng cho thấy. Đổi tình lấy công việc rất
là thê thảm. Mà ngành giáo dục được cho là sạch nhất huống gì những ngành khác.
Một khi số phận đặt mình vào chốn công danh, kiếm cho mình 1 chút hơi hướm là
người nhà nước, chịu tí tủi nhục để vác mặt với đời. . Thân cư THẤT SÁT là thân
bị áp bức, bị ép bị đè, bị kềm kẹp... thậm chí bị giết. Bởi thế có câu:
“THẤT SÁT lâm Thân chung thị yểu”
Thân
cư ở đâu bị SÁT, bị TRIỆT, bị KỴ đều xấu. Bị TUẦN tuy có phần đỡ hơn, vì bị hạn
chế trong vòng tròn mà Tuần cho phép. Ví như, ngồi đó chỉ làm công việc này.
Nữ
Mệnh lâm vào hoàn cảnh Thân cư THẤT SÁT lại đi với nhóm Tứ Hung, nhóm này quậy
lấy chồng cũng khó. Chừng đó thôi, cũng 1 mình 1 bóng (cô thân chích ảnh) để
người ta còn lợi dụng. Vì thế, đến khi son phấn tàn phai mới cầu mong cuộc sống
an vui.
Một
khi Quan cung có THẤT SÁT và Thân cư tại đó, tức Mệnh THAM LANG do lòng ham
muốn 2 chữ công danh mà đánh mất nhiều thứ.
Một
khi QUAN LỘC cung có sao ĐỊA KIẾP. Tình huống thứ 2 xảy ra là Ách cung có bộ
CÁO PHỤ. Cái dễ xảy ra nhất là phụ bạc, tố cáo lẫn nhau mọi cái dễ phơi bày ra
ánh sáng.
Quan
cung còn nhị hợp và lục hội đến các
nhược cung Phụ, Điền, Nô, Tật, Tử, Huynh. Từ đó, ta lại có thêm hướng luận đoán
những cái bởi vì, tại sao. Do công việc có thể sinh ra tai hoạ, tai ách bệnh
nghề nghiệp. Ta thường nghe sinh nghề tử nghiệp là thế. Đây là phần mở đầu
trước khi đi sâu vào chi tiết.